CHA THÍCH THEO ĐẠO

Linh mục Giuse Maria Nguyễn-văn-Thích
Bút hiệu Sảng Đình
(1891 – 1978)
Chánh quán: làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên
Sanh ngày: 22- 9- 1891 tại An Nhơn – Bình Định
Mất ngày: 9- 12- 1978 tại Nhà Chung Huế, an táng tại Phủ Cam.
Cải táng vào nghĩa địa các linh mục sau núi Thiên Thai – Huế năm 1982


«Hiền nhân của thời đại» là danh hiệu mà các môn sinh của linh mục Giáo sư Nguyễn văn Thích đã kính cẩn gọi người Cha và người Thầy kiệt xuất của mình. Một danh hiệu mà chắc chắn là tất cả môn sinh của Ngài ở Việt Nam cũng như rải rác trên thế giới (hàng trăm nghìn người) đều đồng tình đồng ý hoan nghênh.

Chúng ta hãy tìm hiểu cuộc đời của hiền nhân bắt đầu từ:

CẬU ẤM NGUYỄN VĂN THÍCH

Chào đời ngày 22 tháng 9 năm 1891, là con thứ hai của cụ Lô Giang Tiểu Cao Nguyễn văn Mại, người làng Niêm Phò cũng là làng Kẻ Lừ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Cụ Nguyễn văn Mại đỗ thủ khoa thi Hương, rồi Phó Bảng khoa Kỷ Sửu (l889) Thừa Thiên, được bổ dụng Tri Phủ An Nhơn (Bình Định), làm quan đến chức Thượng Thư. Cụ Thượng Mại đã từng làm Chánh chủ khảo các khoa thi Hương, thi Hội và Quản giáo môn Hán tự tại trường Quốc học. Cụ đã tháp tùng vua Khải Định qua Pháp với tư cách là một danh sĩ của Triều đình. Trước khi về hưu, Cụ được thăng tước Hiệp Tá Đại học sĩ.

Cụ bà là Thân Thị Vỹ (1862- l946), họ Thân Trọng, ở làng Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, một dòng họ danh tiếng với các bậc khoa bảng như Cụ Thân Trọng Huề, Thượng Thư dưới triều Đồng Khánh, Khải Định.

Từ 4 tuổi, cậu ấm Thích đã được Thân phụ dạy chữ Hán rồi lớn lên vác lều chỏng thi Hương, đến trường ba thì hỏng (chuẩn bị bằng Cử nhân). Thời gian nầy, cậu Thích cũng học chữ quốc ngữ và chữ Pháp rồi vào trường Pèlerin gọi là «Trường Dòng» do các Sư huynh Lasan (Saint Jean Baptiste de La Salle) điều khiển và giảng dạy, ở Huế. Trường nầy được thành lập năm 1904 và học sinh Nguyễn văn Thích thuộc thế hệ đầu tiên được các Sư huynh truyền dạy kiến thức cả đời lẫn đạo. Nơi đây cậu ấm được học hỏi, trau dồi tiếng Pháp và được khai tâm về Giáo lý Kitô giáo. Không chỉ những lời giảng dạy mà còn gương sống hy sinh tận tụy của các «Thầy Dòng» đã giúp học sinh con nhà Nho thấy được phần hòa âm tuyệt diệu giữa Nho giáo và ánh sáng Tin Mừng. Về sau, khi Thân phụ là Cụ Thượng Mại chống đối mạnh mẽ Đạo Công giáo thì cậu giải thích cho Thân Phụ rằng chữ TRỜI là THIÊN của Khổng giáo cũng là THIÊN CHÚA cũa Đạo công giáo. Sau khi trưng dẫn 30 câu trong các sách Nho về chữ THIÊN, thầy Nguyễn Văn Thích trình bày: chữ Thiên đây không phải là bầu trời với trăng sao vằng vặc hay mặt trời chói lọi mà là một Ngôi vị thiêng liêng, là Đấng Tạo Hóa Tối Cao và Toàn Năng Toàn Ái. Ngài là Thượng Đế sáng tạo nên vũ trụ, Đấng chí Mỹ, chí Thiện, chí Ái Quan trọng hơn nữa là Ngài sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài. Phải chăng Nho giáo cũng đã linh cảm điều đó khi khẳng định: «Nhân chi sơ tính bổn thiện», con người phải hướng về Đấng Thiện Hảo, phải sống cho hợp vơi Thiên Đạo, với Thiên Mệnh và Thiên Lý… Đạo Nhân của Nho giáo không xa đạo Ái của Tin Mừng với Tình yêu không ranh giới: Tứ hải giai huynh đệ.

Trong thời gian học tại Pèlerin, học sinh Thích lại có những liên hệ ngày càng mật thiết với linh mục Tuyên Úy Léculier hay Cố Lựu, nên đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa làm Người được thấu hiểu ngày càng thấm đậm trong tâm thức và trí tuệ của chàng thư sinh khao khát Chân, Thiện, Mỹ.

Nhưng từ lòng Tin vào Đấng Tối Thiện đến thể hiện niềm Tin ấy đối với đứa con một gia đình thâm nho như gia đình của cụ Thượng Mại là Thượng Thư Bộ Lễ, không phải là chuyện đơn giản tí nào. Thời đó Giáo hội Công giáo không chấp nhận việc thờ kính tổ tiên, ngăn cấm người công giáo thi hành nghi lễ nầy. Trong khi đó đối với truyền thống đạo đức Việt Nam, chữ HIẾU, với lòng thảo kính Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ là thiêng liêng, là nền tảng của đạo làm người. Do đó, Thầy Thích vô cùng khắc khoải vì trở nên Công giáo sẽ bị xem là phản hiếu, là bất hiếu, nhất là trong một gia đình nổi tiếng, vị vọng của đất Thần Kinh. Ông Bà Nguyễn văn Mại khi biết con mình muốn theo đạo Công giáo thì quyết liệt ngăn cản.

MỘT CUỘC ĐỔI ĐỜI QUYẾT LIỆT

Sau 3 năm suy tư, trở trăn và cầu nguyện, cậu ấm Thích chờ thời điểm thuận lợi. Với bằng Cao đẳng Tiểu học và một năm Sư phạm, Thầy Thích được bổ làm trợ giáo tỉnh Khánh Hoà tháng 2-1911. Bốn tháng sau, ánh sáng Đức tin tỏ rạng trong tâm hồn thúc giục thầy quyết định nhận bí tích Rửa tội để trở nên con cái Thiên Chúa.

Linh mục Charles Eugène Saulcoy, tên Việt là Cố Ngoan, ngày 29 tháng 6, tại Nhà thờ Bình Cang, xã Vĩnh Trung, Thành phố Nha Trang, đã ban phép Thanh Tẩy cho Thầy giáo Thích với tên thánh là Giuse Maria.

Cụ Nguyễn Sen là ông Nội của Linh mục Nguyễn Hữu Phú, Dòng Chúa Cứu Thế làm Cha đỡ đầu. Đây là một bước ngoặt đổi đời quyết liệt như vị tân tòng Giuse Maria Thích đã ghi trong bài thơ sau:

Bỉ cực rồi thì đến thái lai,
Nỗi mừng nửa khóc nửa vui cười
Muôn vàn cảm đội công ơn Chúa,
Bao xiết cao lao phước phận tôi.

Mấy độ gian nan còn để dạ
Ba năm cầu nguyện đã như lời.
Thôi thôi đừng bạn cùng ta nữa,
Ôi sự công danh phú quý ôi!


Được tin sét đánh nầy, cụ Thượng không cầm nổi tức giận, dùng roi gậy đánh nhừ tử «đứa con bất hiếu», như bà em Thiếu Hải thuật lại mấy chục năm về sau, ngày mừng lễ thất tuần «Anh Thích»:

Trong nhà dùi, gậy, ba toong,
Rút ra đánh hết, chẳng còn cái mô!
Chị em, ai nấy sững sờ,
Lính tráng, vú bõ, không ai rờ đến cơm…


Khi cơn «gia biến» dịu dần với thời gian, Cụ Thượng thân phụ nghĩ đến việc lập gia đình cho con trai đã 26 tuổi. Cụ mời Đức Cha Lý (Cố Allys) đến nhà, xin Đức Cha can thiệp làm mai mối với con gái Cụ Thượng Công giáo Nguyễn Hữu Bài để con mình yên số phận, không còn gây thêm tai biến nữa. Nào ngờ đâu, khi được «hung tin» nầy, môn đệ của Đức Giêsu lấy quyết định từ giã gia đình qúy tộc…

Một đêm thanh vắng, thầy Giuse Maria hoá trang làm cô gái đội nón lá, mặc áo dài tha thướt ra đi, sáng sớm tháng 9 năm 1917, trực chỉ đến Tiểu chủng viện An Ninh tại Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị.

Một trường hợp chưa từng có: Muốn được nhận vào Tiểu chủng viện thường là 12 đến 14 tuổi, mà thầy Thích đã 26 tuổi thì phải làm sao đây?

May mắn là Giám mục Lý (Allys) nắm rõ hoàn cảnh nên nhận ngay người chủng sinh rất độc đáo nầy, vừa học tiếng Latinh và chương trình đào tạo linh mục, vừa được mời làm giáo sư Pháp văn, Hán văn, Quốc văn cho chủng sinh. Giáo sư chủng viện lúc đó có linh mục Henri Denis còn gọi là Cố Thuận gửi thư về Pháp cho Mẹ để kể lại sự kiên nầy như sau:

Kính thăm Mẹ yêu quý,
Học trò con đã tề tựu rồi. Năm nay có một chủng sinh xuất sắc. Thường thì học sinh mới vào còn nhỏ tuổi, nhưng người nầy đã trên 26 tuổi. Đó là một giáo sư Pháp văn trường Trung học Nhà nước, đã xin từ chức để nhập chủng viện. Luật chung không cho phép nhận như thế vì vừa lớn tuổi vừa theo đạo mới được 6 năm. Nhưng Đức Giám mục đã thi hành một biệt lệ.

Sau 2 năm tu tập vừa làm trò vừa làm thầy nơi đây, thầy giáo «tiểu chủng sinh» được gửi vào Đại chủng viện Phú Xuân, Huế, và 6 năm sau được thụ phong Linh mục ngày 18 tháng 12 năm 1926.

THEO ANH, EM CŨNG ĐI TU

Ảnh hưởng của Linh mục Giuse Maria Thích trên gia đình ngấm ngầm chiếu tỏa. Em gái của Cha, pháp danh là Như Ngộ, học chữ Hán lúc 6 tuổi, 9 tuổi học chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, rồi làm trợ giáo ở Khánh Hòa cùng một trường với anh. Nhờ sự gần gũi và cảm phục gương sống của anh, cô được hiểu biết và mến Đạo Thiên Chúa. Sau khi Cha Thích đi tu, cô rời Khánh Hoà, ra dạy ở Hà Tĩnh rồi về gia đình nghỉ hè. Tiếng gọi thiêng liêng thúc bách, một hôm vào 11 giờ trưa, cô từ giã gia đình ra đi, chỉ mang theo một bộ áo quần, để lại một bức thư với tất cả nữ trang…

Thật là đau đớn cho cha mẹ khi biết là con gái trưởng thành đã dứt khoát ra đi vào Dòng Cát Minh (Carmel) Kim Long, Huế. Mẹ Bề Trên Aimée de Marie, thừa sai Cát Minh người Pháp, đã đón nhận ứng sinh từ nay mang tên là Agnès Nguyễn thị Ngọc.

Cụ Bà Nguyễn văn Mại đến Nhà kín chửi mắng, bắt cô trở về gia đình, Cụ Ông cũng đến lôi con gái về nhưng cô tu sinh khóc to và nằm trì xuống đất, hai cụ thân sinh đều phải thối lui.

Ngày 29-9-1921, nữ tu Agnès Ngọc được mặc áo Dòng với tên Marie de l'Eucharistie. Nhà Dòng mời gia đình cụ Thượng Mại, thầy Thích, các em, các cháu, gia đình Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, các quan, linh mục, giáo dân đến tham dự.

Nghi lễ tiến hành rất trọng thể, uy nghi, khiến Cụ ông và cụ Bà Nguyễn Văn Mại rất xúc động và mến phục chí khí của hai người con dũng cảm, đạo hạnh. Từ đó Hai Cụ có cảm tình với đạo Công giáo.

Mối xúc động của người anh Nguyễn Văn Thích đã được diễn tả trong hai bài thơ:

I
Cởi lốt trần gian vào Dòng Kín,
Tù nay sự thế thế là xong,
Lìa nhà chi quản muôn hàng lụy,
Thờ Chúa xin dâng trọn tấc lòng.
Nhẹ gót bước vào nơi tịch mạc,
Vui tình chôn lấp cái hình dong,
Bây giờ ngoảnh lại xem trần thế,
Một bước mà xa mấy vạn trùng.

II
Bên lầu rang rảng tiếng chuông vang,
Trên gối đêm xuân giấc lưới tan.
Bảng lảng mắt còn nhìn cõi tịnh,
Bơ vơ lòng những nghĩ thiên đường.
Quen mùi đạo đức quên mùi tục,
Thoát chữ công danh đặng chữ nhàn.
Mới biết một ngày trong phúc Kín,
Hơn trăm nghìn kiếp phúc trần gian.


(Phú xuân chủng viện 29 tháng 9 năm 1921)